I. TÍCH TRUYỆN MẸ HIỆN RA TẠI LỘ ĐỨC
Tín điều “Đức Mẹ Vô nhiễm” mà Đức Piô IX tuyên tín năm 1854 như một ngọn đèn pha chiếu sáng vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu thế để củng cố đức tin dân Chúa trong thế kỷ XIX, khi mà làn sóng vô thần tại Âu châu từ nền văn minh khoa học nổi lên chống Thiên Chúa cứ mỗi ngày tràn lan. Đức Mẹ đã hiện ra tại Paris, La Salette, và Lộ Đức để cản ngăn. Nhất là tại Lộ Đức, Đức Mẹ hiện ra năm 1858 để chuẩn nhận tín điều “Mẹ Vô nhiễm” năm 1854.
Lộ Đức năm 1858 là một thành phố chừng 5,000 cư dân, nằm cạnh sông Pau, lối vào thung lũng dẫy núi Pyrénées phía đông nam nước Pháp, giáp ranh giới Tây Ban Nha. Đức Mẹ chọn Bernađetta Soubinous, 14 tuổi, con nhà nghèo, đau yếu, đơn sơ thật thà tuy chưa học giáo lý. Trưa ngày 11 tháng 2 là thứ Năm sau lễ Tro, Bernađetta cùng với em là Antoinetta và cô bạn Jeanna đi vào rừng kiếm củi đốt lò sưởi. Cô em và cô bạn lội qua sông nước cạn, Bernađetta chưa kịp trụt giầy lội theo, còn đang đứng trước hang Massabielle. Bỗng một cơn gió mạnh, Bernađetta nhìn lên thấy một áng mây vàng và một Bà Đẹp hiện ra. Bà mặc áo dài trắng, đội khăn lúp dài trắng, thắt lưng xanh lơ, đeo tràng hạt vàng ở cánh tay phải. Mỗi chân Bà có một bông hồng vàng. Bà nhìn Bernađetta, mỉm cười và làm dấu thánh giá lần chuỗi, môi không mấy máy. Bernađetta quì xuống lần chuỗi với Bà. Bà làm hiệu bảo Bernađetta tới gần, nhưng Bernađetta sợ không dám. Rồi Bà biến đi. Cô em và cô bạn không thấy gì, chỉ có Bernađetta được thấy sự lạ.
Lần thứ hai, trưa Chúa nhật ngày 14, mười người kể cả cô em và cô bạn cùng với Bernađetta ra hang. Bà hiện ra. Bernađetta vẩy nước phép để biết chắc không phải là ma quái. Bà chỉ mỉm cười, không nói gì.
Từ ngày 18-2 tới ngày 4-3, Bà hiện ra 13 lần và ban sứ điệp cho Bernađetta. Số người đi xem từ mấy người tăng dần tới 8,000 người.
Ngày 25 tháng Ba là lễ Truyền tin. Bà xưng mình: “Ta là Đấng Vô nhiễm thai” (“I am the Immaculate Con-ception”). Bà còn hiện ra hai lần nữa, ngày mồng 7-4 và ngày 16-7. Như vậy Bà Đẹp đó là chính Đức Mẹ. Người hiện ra tại hang Massabielle tất cả 18 lần. Đức Mẹ nói tiếng thổ ngữ Burgundian mà Bernađetta thường nói.
Năm 1866, Bernađetta nhập tu dòng Nữ tử Bác ái tại tu viện St. Gildard thành phố Nevers. Chị bị bệnh xuyễn và lao xương chân đau đớn và qua đời ngày 16 tháng 4 năm 1849, chẵn 35 tuổi. Lời nguyện cuối cùng trên môi miệng chị là: “Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin cầu cho con là một tội nhân khốn nạn”. Trong thời gian chịu bệnh đau đớn, chị viết một câu tóm lược đời sống của chị: “Vâng lời là yêu mến! Âm thầm chịu khổ vì Chúa Kitô là vui sướng. Chân thành yêu mến là hiến dâng mọi sự, kể cả nỗi đớn đau”.
Chị Bernađetta được phong Á Thánh năm 1925 và Hiển Thánh năm 1933.
II. NHỮNG SỨ ĐIỆP ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC BAN
A. Sứ điệp riêng cho Bernađetta
Đức Mẹ nói với Bernađetta: “Con có muốn đến đây mỗi ngày trong hai tuần không? Ta không hứa cho con được hạnh phúc ở đời này nhưng đời sau”. Đức Mẹ còn nói với Bernađetta ba điều bí mật mà Bernađetta không bao giờ tiết lộ.
B. Sứ điệp thống hối đền tội
Hiện ra lần thứ 8 ngày 24 tháng 2, Đức Mẹ nhắn nhủ: “Hãy ăn năn đền tội. Hãy ăn năn đền tội. Hãy cầu xin Thiên Chúa cho các tội nhân. Hãy quì lê vào hang và hôn đất để đền tội cho các tội nhân”. Hiện ra lần thứ 9 ngày 25 tháng 2, Đức Mẹ chỉ bảo “bới dưới tảng đá để có mạch nước vọt lên và hãy uống. Hãy ăn một ít cỏ mọc chung quanh mạch nước”.
C. Sứ điệp cho Giáo hội
Hiện ra lần thứ 13 ngày mồng 2 tháng 3, Đức Mẹ xin “xây một đền thờ tại đây và muốn hang Massabielle sẽ là nơi hành hương và những cuộc rước”.
D. Sứ điệp vinh quang của Đức Mẹ
Hiện ra lần thứ 16 trùng lễ Truyền tin ngày 25 tháng Ba, vì Bernađetta khẩn khoản nài xin, Đức Mẹ xưng mình: “Ta là Đấng Vô nhiễm thai”.
E. Sứ điệp của Mẹ âm vang Phúc âm:
1) Hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mt 26:41).
2) Hãy cải thiện đời sống, Nước Trời đã gần đến (Mt 4:17).
3) Ai uống nước Ta ban sẽ không bao giờ khát (Ga 4:14).
4) Con là Đá. Trên đá này, Ta sẽ xây Giáo hội của Ta (Mt 16:18).
5) Ta luôn ở cùng các con cho tới ngày tận thế (Mt 28:20).
III. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Ngày 7-12-1860, Đức Cha Laurence, Giám mục Giáo phận Tarbes-Lourdes, tổ chức một uỷ ban điều tra cặn kẽ và phỏng vấn tỉ mỉ sự lạ Bernađetta đã được thị kiến và các vụ bệnh nhân được lành nhanh chóng. Kết quả là ngày 18-1-1962, Đức Giám mục Tarbes-Lourdes tuyên bố là sự lạ Bernadetta đã được thị kiến là đúng sự thật đáng tin.
– Tháng 5 năm 1866, hang Massabielle được làm phép, và Thánh lễ đầu tiên được phép dâng tại đây.
– Ngày 15-8-1871, khánh thành nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm.
– Năm 1872, cuộc hành hương với cờ và biểu ngữ. Rước đuốc lần đầu tiên.
– Năm 1873, cuộc hành hương toàn quốc nước Pháp lần thứ nhất.
– Năm 1874, cuộc hành hương quốc tế do Giáo hội Hoa Kỳ và Bỉ được tổ chức lần đầu tiên.
– Năm 1876, Đức Piô IX đội triều thiên cho Thánh tượng Đức Mẹ Lộ Đức.
– Năm 1882, bàn giấy y khoa được thành lập để điều tra khám nghiệm các vụ phép lạ tại Lộ Đức.
– Năm 1888, khánh thành nhà thờ Rất thánh Mân côi.
– Năm 1890, Đức Lêô XIII ban phép mừng lễ Đức Mẹ Lộ Đức trong Giáo phận Tarbes.
– Năm 1907, Đức Thánh Piô X lập lễ Đức Mẹ Lộ Đức khắp thế giới.
– Ngày 25-3-1958, kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ xưng mình: “Ta là Đấng Vô nhiễm thai”, lễ cung hiến Vương cung thánh đường Thánh Piô X dung nạp 27,000 người.
– Ngày 25-3-1988, khánh thành nhà thờ Thánh Bernađetta dung nạp 5,000 người.
– Ba Hội nghị Thánh Thể quốc tế đã được tổ chức tại Lộ Đức năm 1899, 1914, và 1981. Và nhiều Hội nghị Thánh Mẫu cũng đã được tổ chức tại đây.
– Hằng năm có chừng 4 triệu khách hành hương kính viếng Lộ Đức gồm nhiều tổ chức quốc tế hoặc quốc gia.
IV. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Isaia 66:10-14
Cũng như Giêrusalem là nơi Đức Giavê tỏ ra tình thương của Người với dân Israel, Lộ Đức là nơi Đức Mẹ tỏ ra tình thương Hiền Mẫu của Mẹ cho mọi người, cách riêng cho con cái Mẹ, và cho toàn thế giới, đặc biệt cho dân tộc nước Pháp. Tình Mẹ dạt dào như sông cả. Lòng thương của Mẹ mãnh liệt như thác lũ. Con cái Mẹ sẽ được Mẹ cưng thương như trẻ bé, được nâng niu trên đầu gối Mẹ, được ẵm bế trên cánh tay Mẹ và được Mẹ cho bú mớm thoả thuê. Và tất cả cũng được vỗ về an ủi trong những nỗi khổ đau phiền sầu.
Phúc âm: Gioan 2:1-11
Mẹ Maria cùng với Chúa Giêsu đã đến dự tiệc cưới Cana. Tiệc cưới thiếu rượu, Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa làm phép lạ biến hoá nước thành rượu ngon để giữ danh dự cho đôi tân hôn và gia đình hai họ. Cũng thế, Mẹ Maria đã hiện đến Lộ Đức. Nhờ uy quyền của Mẹ Chúa, Mẹ đã biến hoá suối nước có thần lực linh nghiệm chữa lành bệnh cho những ai tin mà uống hay tắm rửa trong suối nước của Mẹ.
Cũng như tại tiệc cưới Cana, Chúa đã tỏ ra vinh quang của Người cho rất đông tiệc khách, tại Lộ Đức, Mẹ Maria đã tỏ ra vinh quang của Chúa cho thế giới, cách riêng cho dân tộc nước Pháp, đặc biệt trong thời đại làn sóng vô thần tràn lan khắp nơi.
L.m. Phêrô, CMC